Áp giải và dẫn giải trong Bộ luật tố tụng hình sự
Ap giải và dẫn giải là gì? Áp giải và dẫn giải được quy định như thế nào về điều kiện áp dụng và trình tự thủ tục trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015?. Hãy cùng LawKey tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
Thế nào là áp giải, dẫn giải
Khái niệm của biện pháp cưỡng chế áp giải, dẫn giải được giải thích tại điểm k và điểm l Khoản 1 Điều 4 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015, sửa đổi và bổ sung năm 2017.
Theo đó, áp giải là việc cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo đến địa điểm tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử.
Dẫn giải là việc cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế người làm chứng, người bị tố giác hoặc bị kiến nghị khởi tố đến địa điểm tiến hành điều tra, truy tố, xét xử hoặc người bị hại từ chối giảm định.”
Điều kiện áp dụng
– Áp giải: Áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội.
Trong BLTTHS năm 2003 thì áp giải chỉ áp dụng đối với trường hợp là bị can, bị cáo, tuy nhiên trong BLTTHS năm 2015 mở rộng đối tượng áp dụng ngoài bị can, bị cáo còn có người bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội (Điều 60, 61, khoản 1 Điều 126 BLTTHS năm 2015).
– Dẫn giải có thể áp dụng đối với:
“a,Người làm chứng trong trường hợp họ không có mặt theo giấy triệu tập mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan; b) Người bị hại trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan; c) Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó liên quan đến hành vi phạm tội được khởi tố vụ án, đã được triệu tập mà vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan”
Trong BLTTHS năm 2003 quy định đối tượng dẫn giải bao gồm: Người làm chứng (Điều 55), tuy nhiên trong BLTTHS năm 2015 quy định việc dẫn giải ngoài người làm chứng còn có thể được áp dụng đối với người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố (Điều 57); người bị hại (Điều 62) trong đó quy định việc dẫn giải đối với trường hợp người bị hại khi họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan, đây là sự bổ sung quan trọng nhằm giải quyết đối với những vụ án liên quan đến tính mạng, sức khỏe con người như tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134)…
Thẩm quyền ra quyết định áp giải, dẫn giải
Theo Khoản 3 Điều 127 BLTTHS quy định về thẩm quyền ra quyết định áp giải, dẫn giải như sau:
Điều tra viên, cấp trưởng của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Kiểm sát viên, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định áp giải, dẫn giải.
Trình tự, thủ tục áp giải, dẫn giải
– Quyết định áp giải, quyết định dẫn giải phải ghi rõ họ tên, ngày, tháng, nă sinh, nơi cư trú của người bị áp giải, dẫn giải, thời gian, địa điểm người bị áp giải, dẫn giải phải có mặt và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của BLTTHS năm 2015.
– Người thi hành quyết định áp giải, dẫn giải phải đọc, giải thích quyết định và lập biên bản về việc áp giải, dẫn giải theo quy định tại Điều 133 của BLTTHS năm 2015.
Cơ quan Công an nhân dân, Quân đội nhân dân có thẩm quyền có trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định áp giải, dẫn giải.
– Không được bắt đầu việc áp giải, dẫn giải người vào ban đêm, không được áp giải, dẫn giải người già yếu, người bị bệnh nặng có xác nhận của cơ quan y tế.
>>Xem thêm: Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị áp giải, đang bị xét xử
Trên đây là bài viết về “Áp giải và dẫn giải trong Bộ luật tố tụng hình sự” LawKey gửi đến bạn đọc. Nếu có thắc mắc, vui lòng liên hệ LawKey.

Quy định về triệu tập người làm chứng theo Bộ luật tố tụng hình sự
Người làm chứng bao gồm những ai? Việc triệu tập người làm chứng được quy định như thế nào trong Bộ luật tố tụng [...]

Nghi can trong vụ án đã chết thì có khởi tố bị can không?
Nhiều vụ án sau khi xảy ra, nghi can đã qua đời vì cố ý hoặc lí do khách quan. Vậy pháp luật quy định xử lý vụ án như [...]