Tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015
Tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là những cơ sở để xác định có hay không dấu hiệu của tội phạm. Người báo tin không nhất thiết phải là người bị hại hoặc là người có quan hệ liên quan đến người bị hại. Tuy nhiên, tố giác, tin báo về tội phạm sai sự thật do cố ý thì người đã báo tin phải chịu trách nhiệm. Hãy cùng LawKey tìm hiểu về Điều 144 Bộ luật tố tụng hình sự qua bài viết dưới đây.
Căn cứ pháp lý
Điều 144. Tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
1. Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền.
2. Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng.
3. Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm.
4. Tố giác, tin báo về tội phạm có thể bằng lời hoặc bằng văn bản.
5. Người nào cố ý tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.
Quy định về tố giác tội phạm
Điều 5 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân trong đấu tranh phòng, chổng tội phạm, theo đó:
“Mọi cá nhân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác, báo tin về tội phạm; tham gia đẩu tranh phòng, chống tội phạm”.
Vì vậy, điều luật đang bình luận quy định tố giác về tội phạm là việc của cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu của tội phạm. Cá nhân trong quá trình sinh sống, học tập và làm việc nếu phát hiện hành vi của cá nhân, tô chức khác có dẩu hiệu của tội phạm thì cần tổ cáo kịp thời vởi cơ quan cố thẩm quyền nhăm góp phân giúp các cơ quan này trong việc phát hiện, ngăn chặn tội phạm, qua đố góp phân đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Cùng với tố giác về tội phạm, điều luật cũng quy định cơ quan, tố chức, cá nhân khi biết thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì thông báo với cơ quan có thẩm quyền. Tố giác về tội phạm đối với hành vi có dấu hiệu tội phạm, còn tin báo về tội phạm đối với các vụ việc có dấu hiệu tội phạm.
Quy định về tin báo về tội phạm
Tin báo về tội phạm cũng có thể là các thông tin được đăng tài trên các phương tiện thông tin đại chúng. Phương tiện thông tin đại chúng là các phương tiện được sử dụng để truyền đạt thông tin một các rộng rãi, cố khả năng đưa thông tin tới đông đảo người dân như: báo in, tạp chí, truyền hình, internet…
Điều luật cũng quy định rõ hình thức của tố giác, tin báo của tội phạm trong khoản 4 Điều 144, theo đó, tố giác, tin báo về tội phạm có thể bằng lời hoặc bằng văn bản. Quy định mờ này khuyến khích và tạo điều kiện thuận tiện cho cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác, báo tin về tội phạm.
Quy định về kiến nghị khởi tố
Kiến nghị khởi tố được quy định tại khoản 3 của điều luật. Quy định về kiến nghị khởi tố chặt chẽ hơn so với quy định của tố giác, tin báo về tội phạm. Kiến nghị khởi tố hành vi của cơ quan nhà nước khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm. Cơ quan nhà nước là bộ phận cùa bộ máy nhà nước. Kiến nghị khởi tố thê hiện trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc phát hiện tội phạm, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Kiến nghị khởi tố phải được lập dưới hình thức văn bản. Cơ quan kiến nghị khởi tố phải gửi kèm theo kiến nghị này các chứng cứ, tài liệu liên quan. Phạm vi chủ thể tiếp nhận kiến nghị khởi tố cũng hẹp hơn so với tố giác, tin báo về tội phạm. Cơ quan ra kiến nghị khởi tố phải gửi kiến nghị cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc.
Cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân cố trách nhiệm trong phát hiện tội phạm, đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện trách nhiệm này.
Tuy nhiên, hoạt động tố tụng hình sự nhằm duy trì trật tự xã hội thông qua việc giải quyết vụ án hình sự. Vì vậy, nếu tố giác, tin báo về tội phạm sai sự thật do cố ý thì người đã báo tin phải chịu trách nhiệm. Tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm, người báo tin sai sự thật có thể phải chịu trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm hình sự.
Tố giác, tin báo về tội phạm có thể bằng lời hoặc bằng văn bản
Về hình thức của tố giác và tin báo về tội phạm, theo Điều 101 Bộ luật TTHS năm 2003, tố giác về tội phạm của công dân có thể bằng miệng hoặc bằng văn bản, còn tin báo về tội phạm của cơ quan, tổ chức phải được thể hiện bằng văn bản. Tuy nhiên, xét về mặt học thuật, việc sử dụng thuật ngữ “bằng miệng” chỉ phù hợp với văn nói và chưa bao quát hết được các trường hợp xảy ra. Vì vậy, khoản 4 Điều 144 Bộ luật TTHS năm 2015 đã sửa đổi quy định này thành: “Tố giác, tin báo về tội phạm có thể bằng lời hoặc bằng văn bản”, tức là đã thay “bằng miệng” thành “bằng lời”. Theo đó, tin báo về tội phạm cũng có thể bằng lời hoặc bằng văn bản.
Trách nhiệm của người tố giác tội phạm
Theo đó, người nào cố ý tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.
>>Xem thêm: Người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố ?
Thông tư 28/2020/TT-BCA trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
Trên đây là bài viết về “Tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015” LawKey gửi đến bạn đọc. Nếu có thắc mắc, vui lòng liên hệ LawKey.

Nguyên tắc niêm phong vật chứng trong tố tụng hình sự
Nguyên tắc niêm phong vật chứng trong tố tụng hình sự được quy định thế nào? Người nào có thẩm quyền tổ chức thực [...]

Thực nghiệm điều tra theo Tố tụng hình sự
Thế nào là thực nghiệm điều tra? Khi nào thì cần thực nghiệm điều tra? Việc thực nghiệm điều tra được tiến hành như [...]