Đại diện giữa vợ và chồng theo quy định Luật hôn nhân và gia đình
Căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng gồm những căn cứ nào? Những vấn đề cần lưu ý về đại diện giữa vợ chồng theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
1. Căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng
Theo Điều 24 Luật hôn nhân và gia đình 2014, đại diện giữa vợ và chồng được xác lập dựa trên những căn cứ như sau:
– Việc đại diện giữa vợ và chồng trong xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch được xác định theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
– Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.
– Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan.
Trong trường hợp một bên vợ, chồng mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì căn cứ vào quy định về giám hộ trong Bộ luật dân sự, Tòa án chỉ định người khác đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự để giải quyết việc ly hôn.
2. Đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh
– Trong trường hợp vợ, chồng kinh doanh chung thì vợ, chồng trực tiếp tham gia quan hệ kinh doanh là người đại diện hợp pháp của nhau trong quan hệ kinh doanh đó, trừ trường hợp trước khi tham gia quan hệ kinh doanh, vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc Luật hôn nhân và gia đình và các luật liên quan có quy định khác.
– Trong trường hợp vợ, chồng đưa tài sản chung vào kinh doanh thì vợ hoặc chồng có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó. Thỏa thuận này phải lập thành văn bản.
3. Đại diện giữa vợ và chồng trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với tài sản chung nhưng chỉ ghi tên vợ hoặc chồng
– Việc đại diện giữa vợ và chồng trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản chung có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên vợ hoặc chồng được thực hiện theo quy định tại Điều 24 và Điều 25 của Luật hôn nhân và gia đình.
– Trong trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch với người thứ ba trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng của Luật này thì giao dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật mà người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi.
Trên đây là nội dung bài viết Đại diện giữa vợ và chồng theo Luật hôn nhân và gia đình, LawKey gửi tới bạn đọc. Nếu có thắc mắc liên hệ LawKey để được giải đáp.
Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật hôn nhân và gia đình
Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật hôn nhân và gia đình như thế nào ? Các lưu ý cần biết về tài sản chung, tài [...]
Kết hôn là gì? Các quy định của pháp luật về kết hôn
Kết hôn là gì? Các điều kiện kết hôn theo quy định pháp luật. Những vấn đề cần lưu ý về kết hôn theo quy định của [...]