Tội dùng nhục hình theo quy định của Bộ luật hình sự
Thế nào là tội dùng nhục hình ? Tội dùng nhục hình bị xử lý hình sự như thế nào ? Hãy cùng LawKey tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
Thế nào là tội dùng nhục hình ?
- Có thể hiểu nhục hình là phương pháp tra tấn, gây đau đớn về thể xác người bị điều tra, xét hỏi hoặc bị giam giữ cải tạo như đánh đập, bắt nhịn đói, ăn cơm nhạt, không cho uống nước, bắt nằm lạnh, vv.
- Tội dùng nhục hình theo Điều 373 Bộ luật hình sự 2015 là người nào trong hoạt động tố tụng, thi hành án hoặc thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mà dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm của người khác dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Dấu hiệu pháp lý
Tôi dùng nhục hình có những yếu tố cấu thành tội phạm cơ bản như sau:
Chủ thể
- Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ có những người có thẩm quyền trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án mới có thể thực hiện được tội phạm này. Họ có thể là Thủ trưởng và Phó thủ trưởng cơ quan điều tra; Điều tra viên; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm và các cơ quan khác của lực lượng Cảnh sát nhân dân, lực lượng An ninh nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát các cấp; Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án các cấp, Hội thẩm; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan Thi hành án, Chấp hành viên ở cơ quan thi hành án dân sự các cấp.
- Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.
Khách thể
- Tội dùng nhục hình không chỉ xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người bị nhục hình mà còn làm giảm uy tín của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án và Cơ quan thi hành án hình sự. Nhà làm luật quy định hành vi dùng nhục hình là tội phạm, xuất phát từ nguyên tắc quy định tại Điều 10 về “Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể” tại Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
- Đối tượng tác động của tội phạm này chính là người bị nhục hình, họ là nạn nhân của hành vi nhục hình. Người bị nhục hình đa số là bị can, bị cáo đang bị tạm giam, người bị kết án đang cải tạo trong các trại giam, còn đối với những người tham gia tố tụng khác ít là đối tượng tác động của tội phạm này.
Mặt chủ quan
- Người phạm tội dùng nhục hình thực hiện hành vi phạm tội của mình là do cố ý, có thể do lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp, tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc tuy chỉ thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
- Động cơ tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này nhưng việc xác định động cơ của người phạm tội là rất cần thiết. Nếu người phạm tội vì động cơ cá nhân hoặc tác động xấu khác thì sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội vì động cơ nóng vội, vì thành thích, muốn hoàn thành việc điều tra, kết thúc vụ án sớm.
Mặt khách quan
- Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ gục nhân phẩm của người khác dưới bất kỳ hình thức nào.
- Những hình thức đó có thể là tra tấn, đánh đập, bắt nhịn ăn, nhịn uống, cho ăn cơm thừa, canh mặn, không cho ngủ, cùm kẹp, hỏi cung suốt ngày đêm, bắt phơi nắng, bắt tắm nước lạnh vào mùa đông hoặc có hành vi khác gây đau đớn về thể xác, tinh thần đối với người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo, người bị kết án đang chấp hành hình phạt tù trong các trại giam hoặc người đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, chỉ cần người phạm tội thực hiện hành vi dùng nhục hình là tội phạm đã hoàn thành. Nếu hậu quả do hành vi dùng nhục hình gây ra nghiệm trọng, rất nghiêm trọng hoặc gây đặc biệt nghiêm trọng thì tùy từng trường hợp người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của điều luật.
Về hình phạt
Tại điều 373 Bộ luật hình sự 2015 quy định về Tội dùng nhục hình như sau:
Khung 1
1. Người nào trong hoạt động tố tụng, thi hành án hoặc thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mà dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm của người khác dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Khung 2
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
d) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
đ) Gây thương tích hoặc gây thiệt hại về sức khỏe cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 60%.
Khung 3
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây thiệt hại về sức khỏe cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Làm người bị nhục hình tự sát.
Khung 4
4. Phạm tội làm người bị nhục hình chết, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
Ngoài ra người phạm tội còn có thể bị xử phạt bổ sung
5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
>> Xem thêm: Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật
Trên đây là bài viết về Tội dùng nhục hình LawKey gửi đến bạn đọc. Hãy liên hệ với LawKey để được Luật sư hỗ trợ nếu bạn cần tư vấn chi tiết hơn hay cần luật sư bảo vệ quyền lợi.

Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lừa dối khách hàng
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lừa dối khách hàng có điểm gì khác nhau? Hãy cùng LawKey tìm hiểu qua bài viết [...]

Tội chiếm đoạt chất ma túy theo quy định của Bộ luật hình sự ?
Chiếm đoạt chất ma túy là gì ? Tội chiếm đoạt chất ma túy bị xử lý hình sự như thế nào ? Hãy cùng Lawkey tìm hiểu [...]